Education Philosophy

Education Philosophy
Education Philosophy
  • Chúng tôi chấp nhận các phương thức thanh toán sau đây: Thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, PayPal, chuyển khoản ngân hàng và tiền mặt.
    Chúng tôi sẽ không thu thêm phí cho bất kỳ hình thức thanh toán nào.
  • Đối với sản phẩm có giá: Sau khi chúng tôi ghi nhận thông tin đã thanh toán sản phẩm của bạn, sản phẩm sẽ được mở khóa và bạn có thể xem trực tiếp và tải tài liệu sản phẩm.
  • Đối với thành viên trả phí: Bạn có thể mua và thanh toán sản phẩm với giá 0đ để tải tài liệu sản phẩm.
  • Bạn có thể liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ mở khóa sản phẩm sớm nhất.
  • Nếu bạn gặp vấn đề về sản phẩm của chúng tôi trong thời gian sử dụng, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ xử lý sớm nhất nhé.

Xem trước mẫu

Education Philosophy

 Although we lack accurate statistics about child mortality in the pre-industrial period, we do have evidence that in the 1660s, the mortality rate for children who died within 14 days of birth was as much as 30 per cent. Nearly all families suffered some premature death. Since all parents expected to bury some of their children, they found it difficult to invest in their newborn children. Moreover, to protect themselves from the emotional consequences of children’s death, parents avoided making any emotional commitment to an infant. It is no wonder that we find mothers leaving their babies in gutters or referring to the death in the same paragraph as a reference to pickles.

The 18th century witnessed the transformation from an agrarian economy to an industrial one – one of the vital social changes taking place in the Western world. An increasing number of people moved from their villages and small towns to big cities where life was quite different. Social supports which had previously existed in smaller communities were replaced by ruthless problems such as poverty, crime, substandard housing and disease. Due to the need for additional income to support the family, young children from the poorest families were forced into early employment and thus their childhood became painfully short. Children as young as 7 might be required to work full-time, subjected to unpleasant and unhealthy circumstances, from factories to prostitution. Although such a role has disappeared in most wealthy countries, the practice of childhood employment still remains a staple in underdeveloped countries and has rarely disappeared entirely.

The lives of children underwent a drastic change during the 1800s in the United States. Previously, children from both rural and urban families were expected to participate in everyday labour due to the bulk of manual hard work. Nevertheless, thanks to the technological advances of the mid-1800s, coupled with the rise of the middle class and redefinition of roles of family members, work and home became less synonymous over time. People began to purchase toys and books for their children. When the country depended more upon machines, children in rural and urban areas were less likely to be required to work at home. Beginning from the Industrial Revolution and rising slowly over the course of the 19th century, this trend increased exponentially after the Civil War. John Locke, one of the most influential writers of his period, created the first clear and comprehensive statement of the ‘environmental position’ that family education determines a child’s life, and via this, he became the father of modern learning theory. During the colonial period, his teachings about child care gained a lot of recognition in America.

D According to Jean Jacques Rousseau, who lived in an era of the American and French Revolution, people were ‘noble savages’ in the original state of nature, meaning they were innocent, free and uncorrupted. In 1762, Rousseau wrote a famous novel –  Emile – to convey his educational philosophy through a story of a boy’s education from infancy to adulthood. This work was based on his extensive observation of children and adolescents, their individuality, his developmental theory and on the memories of his own childhood. He contrasted children with adults and described their age-specific characteristics in terms of historical perspective and developmental psychology. Johan Heinrich Pestalozzi, living during the early stages of the Industrial Revolution, sought to develop schools to nurture children’s all-round development. He agreed with Rousseau that humans were naturally good but were spoiled by a corrupt society. His approach to teaching consisted of both general and specific methods, and his theory was based upon establishing an emotionally healthy and homelike learning environment, which had to be in place before more specific instruction occurred.

One of the

...

Triết lý giáo dục

Mặc dù thiếu những số liệu thống kê chính xác về tỷ lệ tử vong ở trẻ em trong thời kỳ tiền công nghiệp, nhưng chúng ta có bằng chứng rằng vào những năm 1660, tỷ lệ tử vong ở trẻ em trong vòng 14 ngày sau khi sinh là 30%. Gần như ở tất cả các gia đình đều xuất hiện những trường hợp chết yểu. Do tất cả các bậc cha mẹ đều chuẩn bị sẵn tâm lý sẽ phải chôn cất một vài đứa con, họ cảm thấy khó có thể đầu tư quá nhiều cho những đứa trẻ mới sinh. Hơn nữa, để tự bảo vệ mình khỏi những hậu quả tinh thần từ cái chết của những đứa trẻ, cha mẹ thường tránh không để phát sinh cảm xúc gắn kết nào với trẻ sơ sinh. Không có gì lạ khi chúng ta thấy các bà mẹ bỏ con trong máng nước hoặc đề cập đến cái chết khi đang nói về món dưa muối.

B  Thế kỷ 18 chứng kiến sự chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp – một trong những thay đổi xã hội quan trọng diễn ra ở thế giới phương Tây. Ngày càng có nhiều người di cư từ các ngôi làng và thị trấn nhỏ đến các thành phố lớn, nơi cuộc sống khác biệt khá nhiều. Các hỗ trợ xã hội trước đây tồn tại trong các cộng đồng nhỏ đã bị thay thế bởi các vấn đề tệ nạn như nghèo đói, tội phạm, nhà ở không đủ tiêu chuẩn và bệnh tật. Do cần có thêm thu nhập để giúp đỡ cho gia đình, trẻ em từ các gia đình nghèo nhất bị buộc phải đi làm sớm, do vậy tuổi thơ của chúng trở nên thiếu thốn khó khăn. Trẻ em dưới 7 tuổi có thể phải làm việc toàn thời gian, chịu đựng điều kiện sống bất hạnh và thiếu lành mạnh, từ trong nhà máy đến công việc mại dâm. Mặc dù vai trò như vậy đã biến mất ở hầu hết các nước giàu có, nhưng tình trạng sử dụng lao động trẻ em vẫn là một vấn đề lớn ở các nước kém phát triển và gần như không thể biến mất hoàn toàn.

Điều kiện sống của trẻ em đã trải qua một giai đoạn thay đổi mạnh mẽ trong suốt những năm 1800 ở Hoa Kỳ. Trước đó, trẻ em từ các gia đình nông thôn và thành thị đều phải tham gia lao động hàng ngày do số lượng lớn các công việc chân tay nặng nhọc. Tuy nhiên, nhờ những tiến bộ công nghệ những năm giữa thập niên 1800, cùng với sự gia tăng của tầng lớp trung lưu và việc xác định lại vai trò của các thành viên trong gia đình, công việc và gia đình dần trở nên ít liên hệ mật thiết hơn theo thời gian. Mọi người bắt đầu mua đồ chơi và sách cho con cái của họ. Khi đất nước phụ thuộc nhiều hơn vào máy móc, trẻ em ở nông thôn và thành thị có xu hướng ít phải làm việc ở nhà hơn. Khởi đầu từ Cách mạng Công nghiệp và diễn ra chậm chạp trong giai đoạn thế kỷ 19, xu hướng này đã tăng lên theo cấp số nhân sau Nội chiến. John Locke, một trong những tác giả có ảnh hưởng nhất trong thời kỳ của ông, đã đưa ra nhận định rõ ràng và toàn diện đầu tiên về ‘vai trò của môi trường sống’ rằng giáo dục gia đình quyết định cuộc đời của một đứa trẻ, và nhờ đó, ông trở thành cha đẻ của lý thuyết học tập hiện đại. Trong thời kỳ thuộc địa, các bài giảng của ông về việc chăm sóc trẻ em đã được thừa nhận rộng rãi ở Mỹ.

Theo Jean Jacques Rousseau, người đã sống qua thời kỳ của Cách mạng Mỹ và Pháp, con người là ‘những kẻ hoang dã đáng quý’ trong trạng thái nguyên thủy của tự nhiên, nghĩa là họ ngây thơ, tự do và chưa bị tha hóa. Vào năm 1762, Rousseau đã viết một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng – Emile– để truyền tải triết lý giáo dục của ông thông qua câu chuyện về quá trình giáo dục của một cậu bé từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành. Tác phẩm này dựa trên quan sát sâu rộng của ông về trẻ em và thanh thiếu niên, những đặc điểm mang tính cá nhân của chúng, lý thuyết được phát triển của ông và những ký ức thời thơ ấu của chính ông. Ông so sánh sự khác biệt giữa trẻ em với người lớn và mô tả đặc trưng về lứa tuổi nhất định của chúng dưới góc độ lịch sử và phát triển tâm lý. Johan Heinrich Pestalozzi, người sống trong giai đoạn đầu của Cách mạng Công nghiệp, đã cố gắng phát triển hệ thống các trường học để nuôi dưỡng sự phát triển toàn diện ở trẻ em. Ông đồng ý với Rousseau rằng con người về bản chất là tốt nhưng lại bị hư hỏng bởi một xã hội tệ hại. Phương pháp giảng dạy của ông bao gồm cả

...

Để xem được đầy đủ nội dung và tải dữ liệu, bạn phải trở thành thành viên của chúng tôi và trả phí cho tài liệu (nếu có)