Học tập bằng ví dụ
A Thuyết học tập bắt nguồn từ công trình của Ivan Pavlov, nhà khoa học nổi tiếng, người đã khám phá và dẫn chứng bằng tư liệu các nguyên tắc chi phối cách mà động vật (bao gồm cả con người) học vào những năm 1900. Có hai kiểu học cơ bản hay điều kiện hóa xuất hiện, nổi tiếng trong số đó là điều kiện hóa cổ điển. Điều kiện hóa cổ điển xảy ra khi một con vật học cách liên tưởng giữa tác nhân kích thích trung tính (tín hiệu) với một tác nhân kích thích tự nhiên dựa trên mức độ gần nhau về thời gian của hai kích thích được hình thành. Ví dụ điển hình về điều kiện hóa cổ điển là khả năng của chó liên tưởng âm thanh của tiếng chuông (thứ mà ban đầu không có ý nghĩa đối với chó) với việc xuất hiện thức ăn (thứ có ý nghĩa rất nhiều đối với chó) sau đó ít lâu. Con chó có thể học được mối liên hệ giữa tiếng chuông và thức ăn, nó sẽ chảy nước dãi ngay sau khi nghe thấy tiếng chuông ngay khi kết nối này đã được thực hiện. Nhiều năm nghiên cứu về học tập đã tạo ra một lý thuyết học tập chính xác cao có thể được sử dụng để hiểu và dự đoán cách thức và những trường hợp mà hầu hết mọi loài động vật sẽ học, bao gồm cả con người và cuối cùng giúp con người tìm ra cách thay đổi hành vi của chúng.
B Mô hình vai trò là một khái niệm phổ biến để hướng dẫn sự phát triển của trẻ em, nhưng những năm gần đây, một nghiên cứu rất thú vị đã được thực hiện về việc học tập thông qua các ví dụ ở các loài động vật khác. Nếu chủ đề về việc học ở động vật liên quan tới điều kiện hóa cổ điển hoặc điều kiện hóa từ kết quả được dạy rất nhiều, thì nó lại chú trọng quá nhiều vào cách chúng ta cho phép các con vật học mà không đủ chú trọng vào việc chúng được trang bị cho học tập như thế nào. Để dạy một khóa học của mình, tôi đã tìm hiểu sâu về một bộ tài liệu rất thú vị và dễ tiếp cận về học tập xã hội ở động vật có vú, bao gồm cả tinh tinh và trẻ em, được biên tập bởi Heyes và Galef (1996).
C Nghiên cứu được báo cáo trong một tài liệu bắt đầu với một chuyến đi thực tế của trường tới một khu rừng thông ở Israel, nơi nhiều nón thông được tìm thấy, đã bị bóc đến lõi trung tâm. Vì vậy, cuộc khảo sát đã bắt đầu mà không đặt nặng vấn đề lý thuyết, chỉ hướng vào việc tìm hiểu loài nào đang ăn những hạt thông bổ dưỡng này và cách chúng xoay sở để lấy hạt ra khỏi nón như thế nào. Thủ phạm được chứng minh là loài chuột đen linh hoạt và khỏe mạnh, (Rattus ridus), và kỹ thuật của chúng là cắn từng vảy nón ở gốc của nó, trình tự từ gốc đến ngọn theo kiểu phát triển xoắn ốc của hình nón.
D Người ta phát hiện ta rằng những con chuột đen ở thành thị thiếu kỹ năng và cũng không thể học nó ngay cả khi được ở cùng với những con chuột chuyên cắn nón thông có kinh nghiệm. Tuy nhiên, con non của chuột mẹ thành thị được nuôi dưỡng bởi những chuột mẹ có kinh nghiệm cắn nón thông lại có được kỹ năng này, trong khi con non của chuột mẹ chuyên cắn nón thông được nuôi bởi những chuột mẹ thành thị lại không có. Rõ ràng kỹ năng này phải được học từ chuột mẹ. Các thí nghiệm khác cho thấy rằng những người trưởng thành ngây thơ có thể phát triển kỹ năng nếu họ được cung cấp các nón mà vòng xoắn vảy hoàn chỉnh đầu tiên đã được lấy ra; giống như máy photocopy mới của chúng tôi, bạn có thể tìm ra cách sử dụng sau khi ai đó đã chỉ cho bạn cách bật nó lên. Trường hợp ở chuột, những con chuột non lấy nón từ chuột mẹ khi con mẹ vẫn đang cho chúng ăn, để chúng có được kỹ năng bóc vảy nón hoàn chỉnh.
E Chúng ta có thể kết luận một ví dụ điển hình về khả năng thích ứng, nhưng hãy nhìn vào tính kinh tế. Điều này được xác định bằng cách đo sự hấp thụ oxy của một con chuột đang bóc nón thông trong một buồng trao đổi chất để tính toán chi phí năng lượng và so sánh nó với lợi ích của hạt thông được đo bằng nhiệt lượng kế. Chi phí được chứng minh là nhỏ hơn 10% giá trị năng lượng của nón. Một mức lợi nhuận chấp nhận được.
F Một bài báo vào năm 1996, hành vi động vật của Bednekoff và Baida, cung cấp một cái nhìn khác về tính thích nghi của việc học tập xã hội. Nó liên quan
...