Canada Lynx

Canada Lynx
Canada Lynx
  • Chúng tôi chấp nhận các phương thức thanh toán sau đây: Thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, PayPal, chuyển khoản ngân hàng và tiền mặt.
    Chúng tôi sẽ không thu thêm phí cho bất kỳ hình thức thanh toán nào.
  • Đối với sản phẩm có giá: Sau khi chúng tôi ghi nhận thông tin đã thanh toán sản phẩm của bạn, sản phẩm sẽ được mở khóa và bạn có thể xem trực tiếp và tải tài liệu sản phẩm.
  • Đối với thành viên trả phí: Bạn có thể mua và thanh toán sản phẩm với giá 0đ để tải tài liệu sản phẩm.
  • Bạn có thể liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ mở khóa sản phẩm sớm nhất.
  • Nếu bạn gặp vấn đề về sản phẩm của chúng tôi trong thời gian sử dụng, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ xử lý sớm nhất nhé.

Xem trước mẫu

Canada Lynx

A     The Canada lynx is like a gray ghost of the north—elusive, evading human contact. It stands about 20 inches tall at the shoulder but weighs about 20 pounds—scarcely more than a large house cat. It is readily recognized by its long, black ear tufts; short, black-tipped tail; and large, rounded feet with furry pads, which permit it to walk on the snow’s surface. Historically, the Canada lynx ranged from Alaska across Canada and into many of the northern U.S. states. In eastern states, it lived in a transition zone in which boreal coniferous forests yielded to deciduous forests. In the West, it preferred subalpine coniferous forests of mixed age. It would den and seek protection from severe weather in mature forests with downed logs but hunt for its primary prey, the snowshoe hare, in young forests with more open space.

B     In the northern part of its range, the lynx serves as one half of a classic predator-prey relationship, feeding almost exclusively on the snowshoe hare, a large northern rabbit that wears a brown coat in summer and a white one in winter. The two species evolved together; the cat becoming a specialist in killing the hare, the hare becoming adept at eluding the lynx. The lynx kills an average of one hare every two or three days. It will turn to killing grouse, rodents, and other animals if hares become scarce. The link between lynx and hare is so tight in the north that the two species’ populations fluctuate in almost perfect synchrony. Hare populations follow a natural cyclical pattern, changing approximately every ten years from abundance to scarcity and back to abundance. Adult lynx usually survive periods of hare scarcity, but their kittens often do not. As a result, the lynx population follows a similar pattern, with its peaks and valleys lagging one to two years behind those of the hare. Lynx populations south of the Canadian border were probably never as abundant or dense as the more northern populations.

C     The diet of lynx in these southern areas is more varied—including squirrels, small rodents, grouse, and hares—and the populations are less dense and less productive than their northern counterparts. This low density and productivity makes southern lynx populations especially vulnerable to the ever increasing human activities that affect the abundance of the lynx’s prey base in these regions, or that may cause lynx to avoid areas of otherwise acceptable habitat. Although lynx were never abundant in the United States, they probably did occur in most northern states and western mountainous areas as far south as Colorado. Today, while tens of thousands of lynx remain in Canada and Alaska, the U.S. Fish and Wildlife Service (FWS) can confirm the presence of lynx populations below the border only in Maine, Montana, Washington, and Colorado.

D      The lynx’s gradual disappearance from the contiguous U.S. resulted from human activities that have compromised both the lynx and its habitat. In the nineteenth century, trapping put heavy pressure on the species. Now, the cat’s survival in the U.S. is primarily jeopardized by habitat destruction and fragmentation. Some timber practices can remove the mature forest that the lynx needs for denning and rearing young. These activities can also disrupt lynx travel patterns, as the cats prefer tree cover. Roads threaten the lynx by fragmenting its habitat, isolating lynx populations, exposing them to predators, and providing competitor species new access to habitat formerly dominated by the lynx. For example, snowmobile traffic creates trails that may allow competitors like coyotes, wolves, and cougars access to lynx winter habitat. Motor vehicles also cause lynx mortality: Recent attempts to reintroduce lynx from Canada into New York’s Adirondack Mountains failed, primarily because the cats were hit by cars and trucks.

E        In the 1970s and 1980s, the threat to lynx from trapping reached a new height when the price for hides rose to as

...

Linh miêu Canada

A         Linh miêu Canada giống như một bóng ma xám của phương Bắc – lẩn tránh con người. Linh miêu cao ngang vai khoảng 20 inch nhưng nặng khoảng 20 pound — chỉ hơn một con mèo nhà lớn. Dễ dàng nhận ra bởi hai búi tai dài đen của nó; đuôi ngắn, đen tuyền; và bàn chân tròn, to với những đệm chân, cho phép nó đi trên bề mặt tuyết. Trong lịch sử, linh miêu Canada phân bố ở Alaska trên khắp Canada và nhiều tiểu bang phía bắc Hoa Kỳ. Ở các bang phía đông, linh miêu sống trong một vùng chuyển tiếp, nơi các khu rừng cây lá kim nhường chỗ cho rừng rụng lá. Ở phương Tây, nó thích sống trong các khu rừng lá kim có độ tuổi cây đa dạng ở vùng núi cao. Nó tránh thời tiết khắc nghiệt trong những khu rừng cây lớn với những khúc gỗ mục nhưng lại săn con mồi chính của nó, thỏ rừng móng tuyết, trong những khu rừng trẻ rộng lớn hơn.

B       Ở phía bắc nơi linh miêu sinh sống, nó là một nửa trong mối quan hệ động vật ăn thịt – con mồi, hầu như nó chỉ ăn thịt thỏ tuyết, một loài thỏ phương Bắc lớn mang bộ lông màu nâu vào mùa hè và màu trắng vào mùa đông. Hai loài cùng tiến hóa; mèo trở thành chuyên gia giết thỏ rừng, còn thỏ rừng trở nên thành thạo trong việc lẩn tránh linh miêu. Trung bình cứ sau hai hoặc ba ngày linh miêu lại săn được một con thỏ rừng. Nó sẽ chuyển sang giết gà gô, động vật gặm nhấm và các động vật khác nếu thỏ rừng trở nên khan hiếm. Mối liên hệ giữa linh miêu và thỏ rừng ở phía bắc rất chặt chẽ đến mức quần thể của hai loài đồng thời dao động gần như ở mức hoàn hảo. Các quần thể thỏ rừng tuân theo một mô hình chu kỳ tự nhiên, thay đổi khoảng mười năm một lần từ dồi dào sang khan hiếm và trở lại dồi dào. Linh miêu trưởng thành thường sống sót trong thời kỳ khan hiếm thỏ rừng, nhưng những con non của chúng thường không. Kết quả là, quần thể linh miêu đi theo một mô hình tương tự, với số lượng đỉnh và đáy giảm từ một đến hai năm so với thỏ rừng. Các quần thể linh miêu ở phía nam biên giới Canada có lẽ chưa bao giờ phong phú hay dày đặc như các quần thể phía bắc.

C        Chế độ ăn của linh miêu ở các khu vực phía nam này đa dạng hơn – như sóc, các loài gặm nhấm nhỏ, gà gô và thỏ rừng – và các quần thể này thưa thớt hơn và kém phong phú hơn so với ở phía bắc. Mật độ thấp và sự kém phong phú khiến các quần thể linh miêu phương nam đặc biệt dễ bị tổn thương trước các hoạt động ngày càng tăng của con người tác động đến sự phong phú tại vùng săn mồi của linh miêu ở những khu vực này, hoặc điều này có thể khiến linh miêu tránh xa những khu vực có môi trường sống khác vốn chúng có thể sống được. Mặc dù linh miêu ở Hoa Kỳ chưa bao giờ nhiều, nhưng chúng có lẽ đã xuất hiện ở hầu hết các bang phía bắc và các khu vực miền núi phía tây đến tận miền nam Colorado. Ngày nay, trong khi hàng chục nghìn con linh miêu vẫn còn ở Canada và Alaska, Cục Hoang dã và Cá Hoa Kỳ (FWS) vẫn có thể xác nhận sự hiện diện của quần thể linh miêu bên dưới biên giới ở Maine, Montana, Washington và Colorado.

D         Việc linh miêu dần biến mất khỏi vùng tiếp giáp với Hoa Kỳ là do các hoạt động của con người đã làm tổn hại đến cả linh miêu và môi trường sống của nó. Vào thế kỷ 19, việc đặt bẫy gây áp lực nặng nề lên loài này. Giờ đây, sự sống còn của loài mèo ở Mỹ chủ yếu bị đe dọa bởi môi trường sống bị phá hủy và chia cắt. Một số hoạt động khai thác gỗ có thể phá hủy rừng trưởng thành nơi mà linh miêu cần để ẩn náu và nuôi con non. Những hoạt động này cũng có thể làm gián đoạn mô hình di chuyển của linh miêu, vì mèo thích có cây che chắn hơn. Các con đường chia cắt môi trường sống của linh miêu, cô lập quần thể linh miêu, khiến chúng bị lộ diện trước những kẻ săn mồi và cho phép các loài cạnh tranh tiếp cận được với môi trường sống do linh miêu thống trị trước đây. Ví dụ: lưu lượng xe trượt tuyết hình thành những con đường mòn tạo điều kiện cho các đối thủ cạnh tranh như sói đồng cỏ, chó sói và báo sư tử tiếp cận môi trường sống mùa đông của linh

...

Để xem được đầy đủ nội dung và tải dữ liệu, bạn phải trở thành thành viên của chúng tôi và trả phí cho tài liệu (nếu có)