REFLECTING ON THE MIRROR

REFLECTING ON THE MIRROR
REFLECTING ON THE MIRROR
  • Chúng tôi chấp nhận các phương thức thanh toán sau đây: Thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, PayPal, chuyển khoản ngân hàng và tiền mặt.
    Chúng tôi sẽ không thu thêm phí cho bất kỳ hình thức thanh toán nào.
  • Đối với sản phẩm có giá: Sau khi chúng tôi ghi nhận thông tin đã thanh toán sản phẩm của bạn, sản phẩm sẽ được mở khóa và bạn có thể xem trực tiếp và tải tài liệu sản phẩm.
  • Đối với thành viên trả phí: Bạn có thể mua và thanh toán sản phẩm với giá 0đ để tải tài liệu sản phẩm.
  • Bạn có thể liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ mở khóa sản phẩm sớm nhất.
  • Nếu bạn gặp vấn đề về sản phẩm của chúng tôi trong thời gian sử dụng, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ xử lý sớm nhất nhé.

Xem trước mẫu

REFLECTING ON THE MIRROR

In all likelihood the first mirrors would have simply been pools of water that reflected the image of the one who looked into it. Nature’s mirror, while cheap and readily accessible, must have also been quite frustrating with the slightest disturbance on the surface of the water making it difficult to see clearly. It is not altogether clear when the first man-made mirrors were produced but mirrors made of brass are mentioned in the Bible, and after that mirrors of bronze were in common use among the ancient Egyptians, Romans and Greeks. In addition to bronze, the Greeks and Romans experimented with polished silver to produce simple mirrors.

Crude forms of glass mirrors were first made in Venice in 1300. Small sheets of glass were cut from disks made by a spinning process. When this glass was backed with a covering of tin or lead, a ‘mirror’ resulted. During the early periods of their development, mirrors were rare and expensive. France had glass factories but only in Venice, Italy was the secret of mirror foiling know n. The chemical process of coating a glass surface with metallic silver was discovered by German chemist Justus von Liebig in 1835, and this advance inaugurated the modern techniques of mirror making.

By the end of the 17 th  century mirrors were made in Britain and the manufacture of mirrors developed subsequently into an important industry in many other European countries. People wore them in their hats, or set them like jewels in their rings. Society glittered and shone like the firmament. A little later on, America was gripped by the mirror craze, only this time they wore interested in larger mirrors. In house after house in residential districts and eastern cities there could be found one long mirror after another placed between two front parlour windows.

In the manufacture of mirrors today, plate glass is cut to size, and all blemishes are removed by polishing with rouge. The glass is scrubbed and flushed with a reducing solution before silver is applied. The glass is then placed on a hollow, cast-iron tabletop, covered with felt, and kept warm by steam. A solution of silver nitrate is poured on the glass and left undisturbed for about 1 hour. The silver nitrate is reduced to a metallic silver and a lustrous deposit of silver gradually forms. The deposit is dried, coated with shellac, and painted. Most present-day mirrors therefore, are made up of these layers. Glass is used on top because it is smooth, clear, and protects the reflective surface. A mirror needs to be very smooth in order for the best reflection to occur.

Mirrors may have plane or curved surfaces. A curved mirror is concave or convex depending on whether the reflecting surface faces toward the centre of the curvature or away from it. Curved mirrors in ordinary usage have surfaces of varying shapes. Perhaps the most common is spherical. Spherical mirrors produce images that are magnified or reduced – exemplified, by mirrors for applying facial makeup and by rear-view mirrors for vehicles. Cylindrical mirrors are another common type of shape. These focus a parallel beam flight to a linear focus. A paraboloidal mirror is one which is often used to focus parallel rays to a sharp focus, as in a telescope mirror, or to produce a parallel beam from a source at its focus, such as a searchlight. A less common but useful shape is the ellipsoidal. Such a mirror will reflect light from one of its two focal points to the other.

While the mirror is the focus of the production, the frame plays an important albeit slightly lesser role as the anchor by which the mirror is affixed to its proper place. From the late 17th century onward, mirrors and their frames played an increasingly important part in the decoration of rooms. Complementing the shiny reflective mirror, the early frames were usually of ivory, silver, ebony, or tortoiseshell or were veneered with walnut, olive, and laburnum. Needlework and bead frames were also to be

...

PHẢN XẠ TRÊN GƯƠNG

Rất có thể những tấm gương đầu tiên chỉ đơn giản là những vũng nước phản chiếu hình ảnh của người nhìn vào đó. Gương thiên nhiên mặc dù rẻ tiền và dễ tiếp cận, nhưng chắc hẳn bạn cũng khá bực bội vì sự xáo trộn dù nhỏ nhất trên bề mặt nước cũng khiến bạn khó mà nhìn rõ. Không rõ hoàn toàn khi nào những chiếc gương nhân tạo đầu tiên được sản xuất, nhưng những chiếc gương làm bằng đồng thau được nhắc đến trong Kinh thánh, và sau đó những chiếc gương bằng đồng đã được người Ai Cập, La Mã và Hy Lạp cổ đại sử dụng phổ biến. Ngoài đồ đồng, người Hy Lạp và La Mã đã thử nghiệm với bạc đánh bóng để sản xuất những chiếc gương đơn giản.

Các dạng gương thủy tinh thô được sản xuất lần đầu tiên ở Venice vào năm 1300. Các tấm kính nhỏ được cắt ra từ các đĩa bằng quy trình quay. Khi tấm kính này được bao phủ bởi một lớp thiếc hoặc chì, một “tấm gương” được tạo ra. Trong thời kỳ đầu phát triển, gương rất hiếm và đắt tiền. Pháp có nhà máy sản xuất thủy tinh, nhưng chỉ ở Venice, Ý mới nắm giữ bí quyết tráng gương. Quá trình hóa học phủ một bề mặt thủy tinh bằng bạc kim loại được nhà hóa học người Đức Justus von Liebig phát hiện vào năm 1835, và bước tiến này đã mở đầu cho kỹ thuật chế tạo gương hiện đại.

Vào cuối thế kỷ 17, gương được sản xuất ở Anh và phân phối gương sau đó đã phát triển thành một ngành công nghiệp quan trọng ở nhiều nước châu Âu khác. Mọi người đội gương trong mũ, hoặc cài chúng trên nhẫn như những viên đá quý. Xã hội lấp lánh và tỏa sáng giống như một nền tảng vững chắc. Một thời gian sau, nước Mỹ bị cuốn theo cơn sốt gương, chỉ có điều lần này họ quan tâm đến những chiếc gương lớn hơn. Từ nhà này sang nhà khác ở các khu dân cư và các thành phố phía đông, ta có thể thấy gương dài, hết tấm này đến tấm khác đặt giữa hai cửa sổ phòng khách phía trước.

Trong sản xuất gương ngày nay, tấm kính được cắt theo kích thước, và tất cả các vết bẩn được loại bỏ bằng cách đánh bóng bằng bột sắt oxit. Kính được cọ và rửa bằng dung dịch khử trước khi tráng bạc. Sau đó, tấm kính được đặt trên một mặt bàn bằng gang rỗng, bọc nỉ và được giữ ấm bằng hơi nước. Một dung dịch bạc nitrat được đổ lên tấm kính và để nguyên trong khoảng 1 giờ. Bạc nitrat bị khử thành bạc kim loại và một lớp cặn bạc bóng loáng dần dần hình thành. Cặn bạc được làm khô, phủ một lớp nhựa shellac và được sơn. Do đó, hầu hết các loại gương ngày nay đều được tạo thành từ các lớp này. Kính được sử dụng trên cùng vì nó nhẵn, trong và bảo vệ bề mặt phản chiếu. Một chiếc gương cần phải rất mịn để có thể phản chiếu tốt nhất.

Gương có thể có mặt phẳng hoặc mặt cong. Gương cong lõm hay lồi phụ thuộc vào bề mặt phản xạ hướng về tâm hay ra xa tâm của mặt cong. Gương cong được sử dụng thông thường có bề mặt với nhiều hình dạng khác nhau. Có lẽ phổ biến nhất là hình cầu. Gương cầu tạo ra hình ảnh được phóng đại hoặc thu nhỏ -ví dụ gương trang điểm và gương chiếu hậu cho xe cộ. Gương hình trụ là một loại phổ biến khác. Chúng tập trung một chùm song song đến một tiêu điểm tuyến tính. Gương hình parabol là gương thường được sử dụng để hội tụ các tia song song với tiêu điểm dài, như trong gương của kính thiên văn, hoặc để tạo ra chùm tia song song từ nguồn tại tiêu điểm của nó, chẳng hạn như đèn rọi. Một hình dạng ít phổ biến hơn nhưng hữu ích là hình elip. Một chiếc gương như vậy sẽ phản xạ ánh sáng từ một trong hai tiêu điểm của nó sang tiêu điểm kia.

Trong khi gương là trọng tâm của quá trình sản xuất, phần khung cũng đóng một vai trò quan trọng mặc dù ít hơn một chút, có tác dụng như là một chiếc neo để gương được cố định vào đúng vị trí. Từ cuối thế kỷ 17 trở đi, gương và khung gương ngày càng đóng vai trò quan trọng trong  trang trí phòng. Bên cạnh tấm gương phản chiếu sáng bóng, những chiếc khung gương ban đầu thường bằng ngà voi, bạc, gỗ mun, hoặc mai đồi mồi hoặc được làm bằng gỗ óc chó, ô liu và laburnum. Chế tác thêu cùng với khung đính cườm cũng xuất hiện. Những người thợ thủ công như Grinling Gibbons thường sản xuất những khung gương được chạm khắc công phu

...

Để xem được đầy đủ nội dung và tải dữ liệu, bạn phải trở thành thành viên của chúng tôi và trả phí cho tài liệu (nếu có)