Acquiring the principles of mathematics and science

Nội dung chỉ dành cho tài khoản đăng ký

Đăng ký
  • Chúng tôi chấp nhận các phương thức thanh toán sau đây: Thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, PayPal, chuyển khoản ngân hàng và tiền mặt.
    Chúng tôi sẽ không thu thêm phí cho bất kỳ hình thức thanh toán nào.
  • Đối với sản phẩm có giá: Sau khi chúng tôi ghi nhận thông tin đã thanh toán sản phẩm của bạn, sản phẩm sẽ được mở khóa và bạn có thể xem trực tiếp và tải tài liệu sản phẩm.
  • Đối với thành viên trả phí: Bạn có thể mua và thanh toán sản phẩm với giá 0đ để tải tài liệu sản phẩm.
  • Bạn có thể liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ mở khóa sản phẩm sớm nhất.
  • Nếu bạn gặp vấn đề về sản phẩm của chúng tôi trong thời gian sử dụng, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ xử lý sớm nhất nhé.

Xem trước mẫu

Acquiring the principles of mathematics and science

A                   It has been pointed out that learning mathematics and science is not so much learning facts as learning ways of thinking. It has also been emphasised that in order to learn science, people often have to change the way they think in ordinary situations. For example, in order to understand even simple concepts such as heat and temperature, ways of thinking of temperature as a measure of heat must be abandoned and a distinction between ‘temperature’ and ‘heat’ must be learned. These changes in ways of thinking are often referred to as conceptual changes. But how do conceptual changes happen? How do young people change their ways of thinking as they develop and as they learn in school?

B                     Traditional instruction based on telling students how modern scientists think does not seem to be very successful. Students may learn the definitions, the formulae, the terminology, and yet still maintain their previous conceptions. This difficulty has been illustrated many times, for example, when instructed students are interviewed about heat and temperature. It is often identified by teachers as a difficulty in applying the concepts learned in the classroom; students may be able to repeat a formula but fail to use the concept represented by the formula when they explain observed events.

C                           The psychologist Piaget suggested an interesting hypothesis relating to the process of cognitive change in children. Cognitive change was expected to result from the pupils’ own intellectual activity. When confronted with a result that challenges their thinking – that is, when faced with conflict – pupils realise that they need to think again about their own ways of solving problems, regardless of whether the problem is one in mathematics or in science. He hypothesised that conflict brings about disequilibrium, and then triggers equilibration processes that ultimately produce cognitive change. For this reason, according to Piaget and his colleagues, in order for pupils to progress in their thinking they need to be actively engaged in solving problems that will challenge their current mode of reasoning. However, Piaget also pointed out that young children do not always discard their ideas in the face of contradictory evidence. They may actually discard the evidence and keep their theory.

D                    Piaget’s hypothesis about how cognitive change occurs was later translated into an educational approach which is now termed ‘discovery learning’. Discovery learning initially took what is now considered the Tone learner’ route. The role of the teacher was to select situations that challenged the pupils’ reasoning; and the pupils’ peers had no real role in this process. However, it was subsequently proposed that interpersonal conflict, especially with peers, might play an important role in promoting cognitive change. This hypothesis, originally advanced by Perret-Clermont (1980) and Doise and Mugny (1984), has been investigated in many recent studies of science teaching and learning.

E                           Christine Howe and her colleagues, for example, have compared children’s progress in understanding several types of science concepts when they are given the opportunity to observe relevant events. In one study, Howe compared the progress of 8 to 12-year-old children in understanding what influences motion down a slope. In order to ascertain the role of conflict in group work, they created two kinds of groups according to a pre-test: one in which the children had dissimilar views, and a second in which the children had similar views.

They found support for the idea that children in the groups with dissimilar views progressed more after their training sessions than those who had been placed in groups with similar views. However, they found no evidence to support the idea that the children worked out their new conceptions during their

...

Tiếp thu các nguyên tắc của toán học và khoa học

A Người ta đã chỉ ra rằng việc học toán và khoa học không phải là học từ thực tế như học các cách suy nghĩ. Người ta cũng nhấn mạnh rằng để học khoa học, mọi người thường phải thay đổi cách suy nghĩ trong những tình huống thông thường. Ví dụ, ngay cả để hiểu những khái niệm đơn giản như nhiệt lượng và nhiệt độ, thì cần phải bỏ cách coi nhiệt độ như một đơn vị đo nhiệt và phải học cách phân biệt giữa ‘nhiệt độ’ và ‘nhiệt lượng’. Những thay đổi trong cách suy nghĩ này thường được gọi là những thay đổi về khái niệm. Nhưng làm thế nào để thay đổi khái niệm xảy ra? Làm thế nào để những người trẻ thay đổi cách suy nghĩ của họ khi họ phát triển và khi họ học ở trường?

B Hướng dẫn truyền thống dựa trên việc cho học sinh biết các nhà khoa học hiện đại nghĩ như thế nào dường như không thành công lắm. Học sinh có thể học các định nghĩa, công thức, thuật ngữ, nhưng vẫn duy trì các quan niệm trước đây của chúng. Khó khăn này đã được minh họa nhiều lần, ví dụ, khi các học sinh đã được giáo viên hướng dẫn được phỏng vấn về nhiệt lượng và nhiệt độ. Nó thường được giáo viên xác định là một điều khó khăn trong việc áp dụng các khái niệm đã học trong lớp học; học sinh có thể lặp lại một công thức nhưng không sử dụng được khái niệm được biểu thị bằng công thức khi họ giải thích các sự kiện quan sát được.

C Nhà tâm lý học Piaget đã đề xuất một giả thuyết thú vị liên quan đến quá trình thay đổi nhận thức ở trẻ em. Thay đổi nhận thức được mong đợi là kết quả của hoạt động trí tuệ của chính học sinh. Khi đối mặt với một kết quả thách thức tư duy của chúng – tức là khi đối mặt với mâu thuẫn – học sinh nhận ra rằng chúng cần phải suy nghĩ lại về cách giải quyết vấn đề của riêng mình, bất kể vấn đề đó là toán học hay khoa học. Ông đưa ra giả thuyết rằng sự mâu thuẫn dẫn đến việc mất cân bằng, và sau đó kích hoạt các quá trình cân bằng mà cuối cùng tạo ra sự thay đổi nhận thức. Vì lý do này, theo Piaget và các đồng nghiệp của ông, để học sinh tiến bộ trong suy nghĩ, chúng cần tích cực tham gia giải quyết các vấn đề sẽ thách thức phương thức lập luận hiện tại của chúng. Tuy nhiên, Piaget cũng chỉ ra rằng không phải lúc nào trẻ nhỏ cũng từ bỏ ý tưởng của mình khi đối mặt với những bằng chứng trái ngược nhau. Chúng thực sự có thể loại bỏ bằng chứng và giữ quan điểm của chúng.

D Giả thuyết của Piaget về cách thức thay đổi nhận thức xảy ra sau đó đã được chuyển thành một phương pháp giáo dục mà ngày nay được gọi là ‘học tập khám phá’. Học khám phá ban đầu được coi là lộ trình của người học Tone. Vai trò của giáo viên là lựa chọn các tình huống thách thức khả năng suy luận của học sinh; và các học sinh không có vai trò thực sự trong quá trình này. Tuy nhiên, sau đó người ta đề xuất rằng giữa sự mâu thuẫn giữa các cá nhân, đặc biệt là với các bạn học, có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy thay đổi nhận thức. Giả thuyết này, ban đầu được Perret-Clermont (1980) và Doise và Mugny (1984) đưa ra, đã được khảo sát trong nhiều nghiên cứu gần đây về việc dạy và học khoa học.

E Ví dụ, Christine Howe và các đồng nghiệp của bà đã so sánh sự tiến bộ của trẻ em trong việc hiểu một số loại khái niệm khoa học khi chúng có cơ hội quan sát các sự kiện có liên quan. Trong một nghiên cứu, Howe đã so sánh sự tiến bộ của trẻ em từ 8 đến 12 tuổi trong việc hiểu điều gì ảnh hưởng đến chuyển động xuống dốc. Để xác định vai trò của mâu thuẫn trong làm việc nhóm, họ đã tạo ra hai loại nhóm theo một bài kiểm tra trước: một loại trong đó những đứa trẻ có quan điểm khác nhau và loại thứ hai trong đó những đứa trẻ có quan điểm giống nhau.

Họ nhận thấy sự ủng hộ cho ý kiến rằng trẻ em trong các nhóm có quan điểm khác nhau tiến bộ hơn sau các buổi đào tạo của họ so với những trẻ được xếp vào nhóm có quan điểm tương tự. Tuy nhiên, họ không tìm thấy bằng chứng nào chứng minh cho ý kiến rằng bọn trẻ đưa ra quan niệm mới trong quá trình thảo luận nhóm của chúng, bởi vì sự tiến bộ không thực sự được quan sát thấy trong một bài kiểm

...

Để xem được đầy đủ nội dung và tải dữ liệu, bạn phải trở thành thành viên của chúng tôi và trả phí cho tài liệu (nếu có)