CLASSIFYING SOCIETIES

CLASSIFYING SOCIETIES
CLASSIFYING SOCIETIES
  • Chúng tôi chấp nhận các phương thức thanh toán sau đây: Thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, PayPal, chuyển khoản ngân hàng và tiền mặt.
    Chúng tôi sẽ không thu thêm phí cho bất kỳ hình thức thanh toán nào.
  • Đối với sản phẩm có giá: Sau khi chúng tôi ghi nhận thông tin đã thanh toán sản phẩm của bạn, sản phẩm sẽ được mở khóa và bạn có thể xem trực tiếp và tải tài liệu sản phẩm.
  • Đối với thành viên trả phí: Bạn có thể mua và thanh toán sản phẩm với giá 0đ để tải tài liệu sản phẩm.
  • Bạn có thể liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ mở khóa sản phẩm sớm nhất.
  • Nếu bạn gặp vấn đề về sản phẩm của chúng tôi trong thời gian sử dụng, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ xử lý sớm nhất nhé.

Xem trước mẫu

CLASSIFYING SOCIETIES

Although humans have established many types of societies throughout history, sociologists and anthropologists tend to classify different societies according to the degree to which different groups within a society have unequal access to advantages such as resources, prestige or power, and usually refer to four basic types of societies. From least to most socially Complex they are clans, tribes, chiefdoms and states.

Clan     

These are small-scale societies of hunters and gatherers, generally of fewer than 100 people, who move seasonally to exploit wild (undomesticated) food resources. Most surviving hunter-gatherer groups are of this kind, such as the Hadza of Tanzania or the San of southern Africa. Clan members are generally kinsfolk, related by descent or marriage. Clans lack formal leaders, so there are no marked economic differences or disparities in status among their members.

Because clans are composed of mobile groups of hunter-gatherers, their sites consist mainly of seasonally occupied camps, and other smaller and more specialised sites. Among the latter are kill or butchery sites—locations where large mammals are killed and sometimes butchered— and work sites, where tools are made or other specific activities carried out. The base camp of such a group may give evidence of rather insubstantial dwellings or temporary shelters, along with the debris of residential occupation.

Tribe  

These are generally larger than mobile hunter-gatherer groups, but rarely number more than a few thousand, and their diet or subsistence is based largely on cultivated plants and domesticated animals. Typically, they are settled farmers, but they may be nomadic with a very different, mobile economy based on the intensive exploitation of livestock. These are generally multi-community societies, with the individual communities integrated into the larger society through kinship ties. Although some tribes have officials and even a “capital” or seat of government, such officials lack the economic base necessary for effective use of

The typical settlement pattern for tribes is one of settled agricultural homesteads or villages. Characteristically, no one settlement dominates any of the others in the region. Instead, the archaeologist finds evidence for isolated, permanently occupied houses or for permanent villages. Such villages may be made up of a collection of free-standing houses, like those of the first farms of the Danube valley in Europe. Or they may be clusters of buildings grouped together, for example, the pueblos of the American Southwest, and the early farming village or small town of (catalhoyuk in modern Turkey.

Chiefdom  

These operate on the principle of ranking—differences in social status between people. Different lineages (a lineage is a group claiming descent from a common ancestor) are graded on a scale of prestige, and the senior lineage, and hence the society as a whole, is governed by a chief. Prestige and rank are determined by how closely related one is to the chief, and there is no true stratification into classes. The role of the chief is crucial.

Often, there is local specialisation in craft products, and surpluses of these and of foodstuffs are periodically paid as obligation to the chief. He uses these to maintain his retainers, and may use them for redistribution to his subjects. The chiefdom generally has a center of power, often with temples, residences of the chief and his retainers, and craft specialists. Chiefdoms vary greatly in size, but the range is generally between about 5000 and 20,000 persons.

Early State    

These preserve many of the features of chiefdoms, but the ruler (perhaps a king or sometimes a queen) has explicit authority to establish laws and also to enforce them by the use of a stand-ing army. Society no longer depends totally upon kin relationships: it is now stratified into dif-ferent classes. Agricultural workers and the poorer urban dwellers form the lowest

...

PHÂN LOẠI XÃ HỘI

Mặc dù con người đã thành lập nhiều loại hình xã hội trong suốt lịch sử, nhưng các nhà xã hội học và nhân học có xu hướng phân loại theo mức độ mà các nhóm khác nhau trong một xã hội có quyền tiếp cận bất bình đẳng tới các lợi ích như tài nguyên, uy tín hoặc quyền lực, và thường đề cập đến bốn loại xã hội cơ bản. Từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất về mặt xã hội lần lượt là thị tộc, bộ lạc, tù trưởng quốc và nhà nước.

Thị tộc

Đây là những xã hội quy mô nhỏ gồm những người săn bắn và hái lượm, thường có ít hơn 100 người, họ di chuyển theo mùa để khai thác các nguồn thực phẩm hoang dã (chưa được nuôi trồng). Hầu hết các nhóm săn bắn hái lượm còn tồn tại thuộc loại này, chẳng hạn như Hadza ở Tanzania hoặc San ở miền nam châu Phi. Các thành viên trong thị tộc thường là họ hàng, có quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân. Các thị tộc không có thủ lĩnh chính thức, vì vậy không có sự khác biệt rõ rệt về kinh tế hoặc chênh lệch về địa vị giữa các thành viên trong nhóm.

Vì thị tộc gồm các nhóm săn bắn hái lượm di chuyển, nên họ chủ yếu trú trong các lều tạm theo mùa và những địa điểm khác nhỏ và chuyên biệt hơn. Trong số đó có các địa điểm giết hoặc mổ thịt – nơi giết hoặc mổ thịt các loài thú lớn – và các địa điểm làm việc, nơi chế tạo các công cụ hoặc thực hiện các hoạt động khác. Lều trại của một nhóm như vậy có thể cung cấp bằng chứng về những chỗ ở tạm bợ hoặc nơi trú ẩn tạm thời, cùng với những tàn tích của việc cư trú.

Bộ lạc

Những nhóm này thường lớn hơn các nhóm săn bắn hái lượm di chuyển, nhưng số lượng hiếm khi hơn vài nghìn, họ ăn uống và sinh sống chủ yếu dựa vào cây trồng và động vật thuần hóa. Thông thường, họ là những nông dân định cư, nhưng họ có thể sống du mục với một nền kinh tế di chuyển rất khác dựa trên việc khai thác thâm canh gia súc. Nhìn chung, đây là những xã hội đa cộng đồng, với các cộng đồng riêng lẻ hòa nhập vào xã hội lớn hơn thông qua các mối quan hệ họ hàng. Mặc dù một số bộ lạc có người chỉ huy và thậm chí là có “thủ đô” hoặc trung tâm cai quản, những người chỉ huy này thiếu cơ sở kinh tế cần thiết để hoạt động hiệu quả.

Loại hình định cư điển hình của các bộ lạc là một trong những ngôi nhà hoặc ngôi làng nông nghiệp định cư. Đặc biệt, không có một khu định cư nào thống trị bất kỳ khu định cư nào khác trong khu vực. Thay vào đó, nhà khảo cổ học tìm thấy bằng chứng về những ngôi nhà cố định biệt lập hoặc những ngôi làng cố định. Những ngôi làng như vậy có thể được tạo thành từ một tập hợp những ngôi nhà riêng lẻ, như những ngôi làng đầu tiên ở thung lũng Danube, châu Âu. Hoặc chúng có thể là cụm các ngôi nhà được nhóm lại với nhau, ví dụ, làng người da đỏ ở Tây Nam Hoa Kỳ, và ngôi làng nông nghiệp sơ khai hoặc thị trấn nhỏ catalhoyuk ở Thổ Nhĩ Kỳ ngày  nay.

Tù trưởng quốc

Hoạt động dựa trên nguyên tắc thứ bậc – sự khác biệt về địa vị xã hội giữa người với người. Các dòng dõi khác nhau (dòng dõi là một nhóm có chung tổ tiên) được phân loại theo thang điểm uy tín, và dòng dõi cao cấp, và do đó xã hội là một tổng thể, được điều hành bởi tù trưởng. Uy tín và thứ hạng được xác định bởi mức độ liên quan chặt chẽ của một người với tù trưởng, và không có sự phân tầng thành các giai cấp thực sự. Vai trò của tù trưởng là tối quan trọng.

Thông thường, có sự chuyên môn hóa vùng đối với các sản phẩm thủ công, và phần thặng dư của những sản phẩm này và lương thực được nộp cho tù trưởng định kỳ như một nghĩa vụ. Ông ta sử dụng những thứ này để duy trì những cận thần và có thể sử dụng chúng để phân phối lại cho các thần dân của mình. Tù trưởng có quyền lực cao nhất, ông ta và các cận thần thường có các đền đài, dinh thự và các chuyên gia thủ công. Các tù trưởng quốc có quy mô rất khác nhau, phổ biến từ khoảng 5000 đến 20.000 người.

Nhà nước sơ khai

Loại hình này mang nhiều đặc điểm của hình thức tù trưởng quốc, nhưng người cai trị (có thể là vua hoặc đôi khi là nữ hoàng) có thẩm quyền rõ ràng để thiết lập luật và cũng để thực thi chúng bằng cách sử dụng quân đội thường trực. Xã hội không còn phụ thuộc hoàn

...

Để xem được đầy đủ nội dung và tải dữ liệu, bạn phải trở thành thành viên của chúng tôi và trả phí cho tài liệu (nếu có)