Millions of years ago, continental drift carried the Old World and New World apart, splitting North and South America from
The Columbian Exchange
A Millions of years ago, continental drift carried the Old World and New World apart, splitting North and South America from Eurasia and Africa. That separation lasted so long that it fostered divergent evolution; for instance, the development of rattlesnakes on one side of the Atlantic and of vipers on the other. After 1492, human voyagers in part reversed this tendency. Their artificial re-establishment of connections through the commingling of Old and New World plants, animals, and bacteria, commonly known as the Columbian Exchange, is one of the more spectacular and significant ecological events of the past millennium.
B When Europeans first touched the shores of the Americas, Old World crops such as wheat, barley, rice, and turnips had not travelled west across the Atlantic, and New World crops such as maize, white potatoes, sweet potatoes, and manioc had not travelled east to Europe. In the Americas, there were no horses, cattle, sheep, or goats, all animals of Old World origin. Except for the llama, alpaca, dog, a few fowl, and guinea pig, the New World had no equivalents to the domesticated animals associated with the Old World, nor did it have the pathogens associated with the Old World’s dense populations of humans and such associated creatures as chickens, cattle, black rats, and Aedes aegypti mosquitoes. Among these germs were those that carried smallpox, measles, chickenpox, influenza, malaria, and yellow fever.
C As might be expected, the Europeans who settled on the east coast of the United States cultivated crops like wheat and apples, which they had brought with them. European weeds, which the colonists did not cultivate, and, in fact, preferred to uproot, also fared well in the New World. John Josselyn, an Englishman and amateur naturalist who visited New England twice in the seventeenth century, left us a list, “Of Such Plants as Have Sprung Up since the English Planted and Kept Cattle in New England,” which included couch grass, dandelion, shepherd’s purse, groundsel, sow thistle, and chickweed.
One of these, a plantain (Plantago major), was named “Englishman’s Foot” by the Amerindians of New England and Virginia who believed that it would grow only where the English “have trodden, and was never known before the English came into this country”. Thus, as they intentionally sowed Old World crop seeds, the European settlers were unintentionally contaminating American fields with weed seeds. More importantly, they were stripping and burning forests, exposing the native minor flora to direct sunlight, and the hooves and teeth of Old World livestock. The native flora could not tolerate the stress. The imported weeds could, because they had lived with large numbers of grazing animals for thousands of years.
D Cattle and horses were brought ashore in the early 1600s and found hospitable climate and terrain in North America. Horses arrived in Virginia as early as 1620 and in Massachusetts in 1629. Many wandered free with little more evidence of their connection to humanity than collars with a hook at the bottom to catch on fences as they tried to leap over them to get at crops. Fences were not for keeping livestock in, but for keeping livestock out.
E Native American resistance to the Europeans was ineffective. Indigenous peoples suffered from white brutality, alcoholism, the killing and driving off of game, and the expropriation of farmland, but all these together are insufficient to explain the degree of their defeat. The crucial factor was not people, plants, or animals, but germs. Smallpox was the worst and the most spectacular of the infectious diseases mowing down the Native Americans. The first recorded pandemic of that disease in British North America detonated among the Algonquin of Massachusetts in the early 1630s. William Bradford of Plymouth Plantation wrote that the victims “fell down so generally of this disease as they were in the end not able to help
...Thời kỳ Giao lưu Colombo
A Cách đây hàng triệu năm, sự trôi dạt lục địa đã làm cho Cựu Thế giới và Tân Thế giới tách rời, chia cắt Bắc và Nam Mỹ khỏi Âu-Á và châu Phi. Sự tách biệt đó kéo dài quá lâu đến mức nó thúc đẩy sự tiến hóa khác nhau; ví dụ, sự phát triển của rắn đuôi chuông ở một bên Đại Tây Dương và của rắn viper ở bên kia bờ. Sau năm 1492, các chuyến du hành của con người đã phần nào đảo ngược xu hướng này. Việc tái thiết lập các mối liên hệ nhân tạo của họ thông qua pha trộn giữa các loài thực vật, động vật và mầm bệnh ở Cựu Thế giới với Tân Thế giới, thường được gọi là Giao lưu Colombo, là một trong những sự kiện sinh thái ngoạn mục và quan trọng nhất trong thiên niên kỷ qua.
B Khi người châu Âu lần đầu tiên đặt chân đến bờ biển châu Mỹ, các loại cây trồng ở Cựu Thế giới như lúa mì, lúa mạch, gạo và củ cải chưa đi qua phía tây Đại Tây Dương, và các loại cây trồng của Tân Thế giới như ngô, khoai tây trắng, khoai lang và sắn cũng chưa hướng về phía đông sang châu Âu. Ở châu Mỹ, không có ngựa, gia súc, cừu hay dê, và tất cả động vật có nguồn gốc từ Cựu Thế giới. Ngoại trừ lạc đà llama, lạc đà alpaca, chó, gia cầm và chuột lang, Tân Thế giới không có những loại động vật nuôi cũng như các mầm bệnh mà dân số dày đặc của Cựu Thế giới có và cũng không có cả những sinh vật như gà, gia súc, chuột đen và muỗi vằn Aedes aegypti. Trong số những mầm bệnh này có bệnh đậu mùa, sởi, thủy đậu, cúm, sốt rét và sốt vàng da.
C Đúng như dự đoán, những người châu Âu định cư trên bờ biển phía đông Hoa Kỳ đã trồng trọt các loại cây như lúa mì và táo, mà họ đã mang theo. Cỏ dại châu Âu, loại mà những người thực dân không trồng, và trên thực tế, họ lại muốn nhổ đi, cũng phát triển tốt ở Tân Thế giới. John Josselyn, một người Anh và nhà tự nhiên học không chuyên đã đến thăm New England hai lần trong thế kỷ XVII, đã để lại cho chúng tôi một danh sách, “Những cây như vậy đã xuất hiện kể từ khi người Anh trồng and nuôi gia súc ở New England,” bao gồm cỏ băng, bồ công anh, tề thái, cây cúc dại, cúc tam thất và tình thảo sao.
Một trong số đó, cây mã đề (Plantago major), được đặt tên là “Chân của người Anh” bởi những người da đỏ ở New England và Virginia, những người tin rằng nó sẽ chỉ mọc ở những nơi mà người Anh “đã đặt chân đến, và chưa từng được biết đến trước khi người Anh đến đất nước này.” Do đó, khi họ cố ý gieo hạt giống của Cựu Thế giới, những người định cư châu Âu đã vô tình làm các cánh đồng của châu Mỹ nhiễm cỏ dại. Quan trọng hơn, họ đang chặt phá và đốt rừng, khiến hệ thực vật thứ cấp bản địa phải chịu ảnh hưởng trực tiếp từ ánh sáng mặt trời, móng guốc và răng của các loài gia súc từ Cựu Thế giới. Hệ thực vật bản địa không thể chịu đựng được những tác động này. Nhưng cỏ dại nhập khẩu thì có thể, bởi vì chúng đã quen với một lượng lớn động vật ăn cỏ trong hàng nghìn năm.
D Gia súc và ngựa được đưa đến vào đầu những năm 1600 và nhận thấy khí hậu và địa hình Bắc Mỹ rất thích hợp. Ngựa được đưa đến Virginia sớm nhất là vào năm 1620 và ở Massachusetts vào năm 1629. Nhiều gia súc được thả tự do với ít bằng chứng cho thấy mối liên hệ của chúng với con người hơn là những chiếc vòng cổ có móc ở dưới để mắc vào hàng rào ngăn chúng nhảy vào khu trồng trọt. Hàng rào không phải để giữ gia súc ở trong, mà là để ngăn chúng ra ngoài.
E Sự kháng cự của người châu Mỹ bản địa đối với người châu Âu không hiệu quả. Những người dân bản địa phải chịu đựng sự tàn bạo của người da trắng, chứng nghiện rượu, giết chóc và săn đuổi thú rừng, và chiếm đoạt đất nông nghiệp, nhưng tất cả những điều này không đủ để giải thích mức độ thất bại của họ. Yếu tố quan trọng không phải là con người, thực vật hay động vật, mà là mầm bệnh. Bệnh đậu mùa là bệnh tồi tệ nhất và kinh hoàng nhất trong số các bệnh truyền nhiễm đã tàn sát thổ dân châu Mỹ. Đại dịch đậu mùa đầu tiên được ghi nhận ở Bắc Mỹ thuộc Anh đã bùng phát tại cộng đồng người Algonquin, Massachusetts vào đầu những năm 1630. William Bradford của đồn điền Plymouth đã viết rằng các nạn
...Để xem được đầy đủ nội dung và tải dữ liệu, bạn phải trở thành thành viên của chúng tôi và trả phí cho tài liệu (nếu có)
(*) Thông tin của bạn sẽ được bảo mật tuyệt đối. Sau khi xác nhận thanh toán tài khoản thành viên của bạn sẽ được kích hoạt.