Implication of False Belief Experiments

Implication of False Belief Experiments
Implication of False Belief Experiments
  • Chúng tôi chấp nhận các phương thức thanh toán sau đây: Thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, PayPal, chuyển khoản ngân hàng và tiền mặt.
    Chúng tôi sẽ không thu thêm phí cho bất kỳ hình thức thanh toán nào.
  • Đối với sản phẩm có giá: Sau khi chúng tôi ghi nhận thông tin đã thanh toán sản phẩm của bạn, sản phẩm sẽ được mở khóa và bạn có thể xem trực tiếp và tải tài liệu sản phẩm.
  • Đối với thành viên trả phí: Bạn có thể mua và thanh toán sản phẩm với giá 0đ để tải tài liệu sản phẩm.
  • Bạn có thể liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ mở khóa sản phẩm sớm nhất.
  • Nếu bạn gặp vấn đề về sản phẩm của chúng tôi trong thời gian sử dụng, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ xử lý sớm nhất nhé.

Xem trước mẫu

Implication of False Belief Experiments

A    A considerable amount of research since the mid 1980s has been concerned with what has been termed children’s theory of mind. This involves children’s ability to understand that people can have different beliefs and representations of the world– a capacity that is shown by four years of age. Furthermore, this ability appears to be absent in children with autism. The ability to work out that another person is thinking is clearly an important aspect of both cognitive and social development. Furthermore, one important explanation for autism is that children suffering from this condition do not have a theory of mind(TOM). Consequently, the development of children’s TOM has attracted considerable attention.

B    Wimmer and Perner devised a ‘false belief task’ to address this question. They used some toys to act out the following story. Maxi left some chocolate in a blue cupboard before he went out. When he was away his mother moved the chocolate to a green cupboard. Children were asked to predict where Maxi willlook for his chocolate when he returns. Most children under four years gave the incorrect answer, that Maxi will look in the green cupboard. Those over four years tended to give the correct answer, that Maxi will look in the blue cupboard. The incorrect answers indicated that the younger children did not understand that Maxi’s beliefs and representations no longer matched the actual state of the world, and they failed to appreciate that Maxi will act on the basis of his beliefs rather than the way that the world is actually organised.

C    A simpler version of the Maxi task was devised by Baron-Cohen to take account of criticisms that younger children may have been affected by the complexity and too much information of the story in the task described above. For example, the child is shown two dolls, Sally and Anne, who have a basket and a box, respectively. Sally also has a marble, which she places in her basket,and then leaves to take a walk. While she is out of the room, Anne takes the marble from the basket, eventually putting it in the box. Sally returns,and child is then asked where Sally will look for the marble. The child passes the task if she answers that Sally will look in the basket, where she put the marble; the child fails the task if she answers that Sally will look in the box,where the child knows the marble is hidden, even though Sally cannot know, since she did not see it hidden there. In order to pass the task, the child must be able to understand that another’s mental representation of the situation is different from their own, and the child must be able to predict behavior based on that understanding. The results of research using false-belief tasks have been fairly consistent: most normally-developing children are unable to pass the tasks until around age four.

  Leslie argues that, before 18 months, children treat the world in a literal way and rarely demonstrate pretence. He also argues that it is necessary for the cognitive system to distinguish between what is pretend and what is real. If children were not able to do this, they would not be able to distinguish between imagination and reality. Leslie suggested that this pretend play becomes possible because of the presence of a de-coupler that copies primary representations to secondary representations. For example, children, when pretending a banana is a telephone, would make a secondary representation of a banana. They would manipulate this representation and they would use their stored knowledge of ‘telephone’ to build on this pretence.

E   There is also evidence that social processes play a part in the development of TOM. Meins and her colleagues have found that what they term mind mindedness in maternal speech to six-month old infants is related to both security of attachment and to TOM abilities. Mind Mindedness involves speech that discusses infants’ feelings and explains their behaviour in

...

Ý nghĩa của các thử nghiệm về niềm tin sai lầm

A       Một số lượng đáng kể các nghiên cứu từ giữa những năm 1980 có liên quan đến điều được gọi là lý thuyết về tâm trí của trẻ em. Nó bao gồm khả năng của trẻ em để hiểu rằng mọi người có thể có những niềm tin và sự hình dung khác nhau về thế giới – một năng lực được thể hiện khi trẻ bốn tuổi. Hơn nữa, khả năng này dường như không xuất hiện ở trẻ tự kỷ. Khả năng khám phá ra người khác đang nghĩ gì rõ ràng là một khía cạnh quan trọng của sự phát triển cả về nhận thức và xã hội. Thêm nữa, một lời giải thích quan trọng cho chứng tự kỷ là trẻ em mắc chứng này không có lý thuyết về tâm trí (TOM). Do đó, sự phát triển TOM ở trẻ em đã thu hút được sự chú ý đáng kể.

B      Wimmer và Perner đã đặt ra một ‘nhiệm vụ sự tin tưởng sai lầm’ để giải quyết câu hỏi này. Họ đã sử dụng một số đồ chơi để trình diễn câu chuyện sau đây. Maxi để lại một ít sô cô la trong tủ bếp màu xanh lam trước khi cậu bé đi ra ngoài. Khi cậu đi vắng, mẹ cậu đã chuyển sô cô la sang một chiếc tủ màu xanh lá cây. Trẻ em được yêu cầu dự đoán nơi Maxi sẽ tìm sô cô la của mình khi trở về. Hầu hết trẻ dưới bốn tuổi đưa ra câu trả lời không chính xác, rằng Maxi sẽ tìm trong chiếc tủ màu xanh lá cây. Những trẻ hơn bốn tuổi có xu hướng đưa ra câu trả lời chính xác, rằng Maxi sẽ tìm trong chiếc tủ màu xanh lam. Những câu trả lời không chính xác cho thấy rằng những đứa trẻ nhỏ tuổi hơn không hiểu rằng niềm tin và sự hình dung của Maxi không còn phù hợp với tình trạng thực tế của thế giới, và chúng đánh giá sai việc Maxi sẽ hành động dựa trên niềm tin của mình hơn là cách mà thế giới thực sự vận hành.

C          Một phiên bản đơn giản hơn về nhiệm vụ của Maxi đã được Baron-Cohen đặt ra để xem xét đầy đủ trước những lời chỉ trích rằng trẻ nhỏ có thể đã bị ảnh hưởng bởi sự phức tạp và quá nhiều thông tin của câu chuyện trong nhiệm vụ được mô tả ở trên. Ví dụ, đứa trẻ được cho xem hai con búp bê, Sally và Anne, chúng lần lượt có một cái rổ và một cái hộp. Sally cũng có một viên bi, cô đặt vào giỏ của mình và sau đó ra ngoài đi dạo. Khi cô vắng mặt, Anne lấy viên bi từ giỏ, cuối cùng cho vào hộp. Sally trở về, và đứa trẻ sau đó được hỏi Sally sẽ tìm viên bi ở đâu. Trẻ sẽ vượt qua được nhiệm vụ nếu trả lời rằng Sally sẽ tìm trong rổ, nơi cô đã đặt viên bi; đứa trẻ không hoàn thành được nhiệm vụ nếu trả lời rằng Sally sẽ tìm trong hộp, nơi trẻ biết viên bi được giấu, mặc dù Sally không thể biết điều đó do cô không nhìn thấy việc nó đã được giấu ở đó. Để hoàn thành nhiệm vụ, đứa trẻ phải có khả năng hiểu rằng sự hình dung về mặt tâm trí đối với tình huống của người khác khác với của chúng, và đứa trẻ phải có khả năng dự đoán hành vi dựa trên sự hiểu biết đó. Kết quả của nghiên cứu sử dụng các nhiệm vụ niềm tin-sai lầm khá nhất quán: hầu hết trẻ em phát triển bình thường không thể hoàn thành nhiệm vụ cho tới khi khoảng bốn tuổi.

D          Leslie lập luận rằng, trước 18 tháng tuổi, trẻ em đối xử với thế giới theo cách hoàn toàn thành thật và hiếm khi tỏ ra giả vờ. Ông cũng cho rằng điều đó là cần thiết cho hệ thống nhận thức để phân biệt đâu là giả và đâu là thật. Nếu trẻ em không làm được điều này, chúng sẽ không thể phân biệt được giữa trí tưởng tượng và thực tế. Leslie nêu giả thuyết rằng trò chơi giả vờ này có thể thực hiện được nhờ sự hiện diện của một cơ chế phân chia sao chép sự hình dung chính sang sự hình dung phụ. Ví dụ, Khi trẻ em giả vờ một quả chuối là một chiếc điện thoại, sẽ đặt ra trong đầu sự hình dung phụ về một quả chuối. Chúng sẽ kiểm soát sự hình dung này và sử dụng kiến thức đã biết của chúng về ‘điện thoại’ để xây dựng câu chuyện trên sự giả vờ này.

E          Cũng có bằng chứng cho thấy các quá trình xã hội đóng vai trò trong sự phát triển của TOM. Meins và các đồng nghiệp của cô đã phát hiện ra rằng những gì họ gọi là suy nghĩ tâm trí trong lời nói của người mẹ đối với trẻ sáu tháng tuổi có liên quan đến cả việc đảm bảo sự gắn bó và khả năng TOM. Suy nghĩ tâm trí liên quan đến những điều thảo luận về cảm

...

Để xem được đầy đủ nội dung và tải dữ liệu, bạn phải trở thành thành viên của chúng tôi và trả phí cho tài liệu (nếu có)