COULD YOU PASS ME MY GLASSES, PLEASE?

Could You Pass Me My Glasses, Please?
COULD YOU PASS ME MY GLASSES, PLEASE?
  • Chúng tôi chấp nhận các phương thức thanh toán sau đây: Thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, PayPal, chuyển khoản ngân hàng và tiền mặt.
    Chúng tôi sẽ không thu thêm phí cho bất kỳ hình thức thanh toán nào.
  • Đối với sản phẩm có giá: Sau khi chúng tôi ghi nhận thông tin đã thanh toán sản phẩm của bạn, sản phẩm sẽ được mở khóa và bạn có thể xem trực tiếp và tải tài liệu sản phẩm.
  • Đối với thành viên trả phí: Bạn có thể mua và thanh toán sản phẩm với giá 0đ để tải tài liệu sản phẩm.
  • Bạn có thể liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ mở khóa sản phẩm sớm nhất.
  • Nếu bạn gặp vấn đề về sản phẩm của chúng tôi trong thời gian sử dụng, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ xử lý sớm nhất nhé.

Xem trước mẫu

Could You Pass Me My Glasses, Please?

The human eye was not designed for the years of intensive book learning that are now common in modern society. The result is eye strain and deterioration, often at an early age, but this same society has provided the obvious answer: corrective lensed eyeglasses. Ubiquitous and everpresent, coming in all styles, colours, and designs, the optical correction of faulty vision with these devices is a phase which probably everyone will have to face at some stage in their lives.

It is not surprising that the first eyeglasses were made by the Catholic monks dedicated to the writing, translation, and reproduction of finely written religious texts. In contrast to the general undereducation and illiteracy of the times, these monks were versed in many languages, and worked for years in badly-illuminated candle-lit ‘scriptoriums’ – an effort which took its toll on their eyesight. Thus, the earliest pictorial evidence for the use of eyeglasses is a 1352 portrait of the Catholic cardinal, Hugh de Provence. However, the usefulness of glasses had already long been realised by the population at large, and by 1300 the trade of lens-grinding was widespread enough to require formal guilds and regulations.

Although popular and effective, no one was quite sure of the mechanics of it all. The first detailed mathematical explanation would not come until Johannes Kepler published his work on optics in 1604. Basically, glasses modify the focal length of the eye’s lens. There are two main focusing disorders: myopia and hyperopia. In the case of the first (near-sightedness, in which it is difficult to see objects at a distance), concave lenses are used, compensating for the eye’s refractive error by pushing the focal point back, to the retina. Hyperopia (far-sightedness) uses convex lenses to do the opposite, bringing the focal point forward, to the retina.

Yet, to accommodate the range of situations in which clear vision is needed, from reading books and computer monitors, to television watching and driving cars, some glasses are equipped with more than one lens type. The most common are bi-focal lenses, with two distinct horizontal viewing areas. A conscious effort is thus necessary to focus through the band of the lens necessary to solve the visual challenge faced. A variation which helps with this are lenses which allow progressive transitions, rather than distinct changes between viewing angles. The simplest system of all is to merely have several pairs of glasses, reserving them for specific tasks.

These days, lenses are most commonly a plastic polycarbonate material, offering lower weight and higher scratch resistance, as well as the ability to screen out harmful ultraviolet and infrared rays from the sun. Similarly, the frames are flexible and lightweight, offering less friction and irritation for the skin. Nevertheless, glasses cannot be said to be convenient devices. Grease, dirt, sweat, and vapour can streak them when eating or cooking, or from natural condensation due to temperature changes (such as when exiting a heated building into the colder outdoors). Glasses are also awkward during fast-motion sports or labouring jobs, are rather easily broken, and not cheap to repair.

Obviously then, contact lenses have considerable advantages. These are inserted directly over the pupil, and have the additional benefit of a perceived aesthetic appeal. Traditional glasses are sometimes seen as unfashionable, carrying associations of age or infirmity. The almost invisible contacts avoid this, which is perhaps one reason why most wearers are female. Having said that, by completely covering the pupil, contacts also offer better peripheral vision, and are more appropriate for certain less common vision impairments. Their disadvantage is the difficulty and discomfort involved in putting them on and taking them off. They can also result in dryness and irritation.

Interestingly though, the modern era has seen eyeglasses

...

Bạn có thể đưa kính cho tôi được không?

Mắt người không được cấu tạo để dành hàng năm trời cho việc đọc và nghiên cứu sách, việc đã trở nên phổ biến trong xã hội hiện đại ngày nay. Kết quả là mắt bị mỏi và kém đi, và thường xảy ra khi còn nhỏ, nhưng cũng chính xã hội này đã đưa ra một biện pháp rõ ràng: kính mắt với thấu kính hiệu chỉnh. Có mặt ở khắp mọi nơi, với đủ phong cách, màu sắc và kiểu dáng, việc phải sử dụng các thiết bị này để can thiệp quang học cho các vấn đề thị giác là một giai đoạn mà có lẽ ai cũng sẽ phải đối mặt ở một số giai đoạn trong đời.

Không có gì ngạc nhiên khi chiếc kính mắt đầu tiên được chế tạo bởi các tu sĩ Công giáo, dùng riêng cho việc viết, dịch và sao chép các văn bản tôn giáo được ghi chép tỉ mỉ. Trái ngược với nạn thất học và mù chữ chung của thời đại, những nhà sư này thông thạo nhiều ngôn ngữ và đã làm việc nhiều năm trong các “phòng ghi chép” ít ánh sáng do được thắp bởi nến – chính sự cố gắng này lại gây ảnh hưởng đến thị lực của họ. Vì vậy, bằng chứng hình ảnh sớm nhất cho việc sử dụng kính mắt là một bức chân dung năm 1352 của Hồng y Công giáo, Hugh de Provence. Tuy nhiên, tác dụng của kính mắt đã được dân số nói chung nhìn nhận từ lâu, và đến năm 1300 ngành dịch vụ mài thấu kính đã phổ biến đến mức cần phải có các hội nhóm và quy định chính thức.

Mặc dù phổ biến và hiệu quả, không ai chắc chắn về cơ chế hoạt động của kính mắt. Giải thích chi tiết đầu tiên về khía cạnh toán học chỉ được đưa ra khi Johannes Kepler xuất bản công trình về quang học vào năm 1604. Về cơ bản, kính thay đổi độ dài tiêu cự của thể thủy tinh. Có hai rối loạn tập trung chính: cận thị và viễn thị. Trong trường hợp thứ nhất (cận thị, khó nhìn thấy các vật ở khoảng cách xa), thấu kính lõm được sử dụng, bù cho tật khúc xạ của mắt bằng cách đẩy tiêu điểm trở lại võng mạc. Viễn thị dùng thấu kính lồi để làm điều ngược lại, đưa tiêu điểm về phía trước, đến võng mạc.

Tuy nhiên, để phù hợp với nhiều tình huống đòi hỏi tầm nhìn rõ ràng và khác nhau, từ đọc sách, xem màn hình máy tính, đến xem tivi và lái xe ô tô, một số kính được trang bị nhiều hơn một loại thấu kính. Phổ biến nhất là ống kính hai tiêu cự, với hai vùng nhìn ngang rõ rệt. Do đó, cần chủ động tập trung vào vùng thấu kính tương ứng với từng tình huống gặp phải. Một phiên bản kính hỗ trợ việc này là các ống kính cho phép chuyển đổi liên tục, thay vì những thay đổi riêng biệt giữa các góc nhìn. Hệ thống đơn giản nhất trong tất cả là chỉ dùng một số cặp kính, dành chúng cho các tác vụ cụ thể.

Ngày nay, ống kính thường được làm từ vật liệu nhựa polycarbonate, có trọng lượng thấp hơn và khả năng chống xước cao hơn, cũng như khả năng cản tia cực tím và tia hồng ngoại có hại từ mặt trời. Tương tự, gọng kính rất linh hoạt và nhẹ, ít ma sát và kích ứng da hơn. Tuy nhiên, không thể nói kính mắt là một trang bị tiện lợi. Dầu mỡ, bụi bẩn, mồ hôi và hơi nước có thể tạo thành vệt trên kính khi ăn hoặc nấu nướng, hoặc do ngưng tụ tự nhiên từ sự thay đổi nhiệt độ (chẳng hạn như khi đi ra khỏi một tòa nhà được sưởi ấm để ra ngoài trời lạnh). Kính mắt cũng rất khó sử dụng trong các môn thể thao chuyển động nhanh hoặc các công việc lao động, dễ bị vỡ và sửa chữa tốn kém.

Vì vậy rõ ràng là kính áp tròng có những lợi thế đáng kể. Chúng được đưa trực tiếp lên con ngươi, và còn đến sự hấp dẫn về mặt thẩm mỹ. Kính truyền thống đôi khi bị coi là không hợp thời trang, gây liên tưởng về tuổi tác hoặc ốm yếu. Kính sát tròng gần như vô hình và có thể tránh được nhược điểm này, đó có lẽ là lý do tại sao hầu hết chúng được sử dụng bởi nữ giới. Có thể nói rằng, bằng cách bao bọc hoàn toàn đồng tử, kính sát tròng cũng cung cấp tầm nhìn ngoại vi tốt hơn và thích hợp hơn cho một số chứng suy giảm thị lực ít phổ biến. Nhược điểm của chúng là gây khó khăn và khó chịu khi đeo và tháo. Kính sát tròng cũng có thể dẫn đến khô và kích ứng.

Tuy nhiên, điều thú vị là thời kỳ hiện đại đã chứng kiến kính mắt phần nào trở thành một phụ kiện thời trang. Các nhạc sĩ Buddy Holly và John Lennon với các cặp

...

Để xem được đầy đủ nội dung và tải dữ liệu, bạn phải trở thành thành viên của chúng tôi và trả phí cho tài liệu (nếu có)