OTTERS

Otters
OTTERS
  • Chúng tôi chấp nhận các phương thức thanh toán sau đây: Thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, PayPal, chuyển khoản ngân hàng và tiền mặt.
    Chúng tôi sẽ không thu thêm phí cho bất kỳ hình thức thanh toán nào.
  • Đối với sản phẩm có giá: Sau khi chúng tôi ghi nhận thông tin đã thanh toán sản phẩm của bạn, sản phẩm sẽ được mở khóa và bạn có thể xem trực tiếp và tải tài liệu sản phẩm.
  • Đối với thành viên trả phí: Bạn có thể mua và thanh toán sản phẩm với giá 0đ để tải tài liệu sản phẩm.
  • Bạn có thể liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ mở khóa sản phẩm sớm nhất.
  • Nếu bạn gặp vấn đề về sản phẩm của chúng tôi trong thời gian sử dụng, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ xử lý sớm nhất nhé.
Danh mục: Từ khóa: ,

Xem trước mẫu

Otters

A     Otters are semiaquatic (or in the case of the sea otter, aquatic) mammals. They are members of the Mustelid family which includes badgers, polecats, martens, weasels, stoats and minks, and have inhabited the earth for the last 30 million years and over the years have undergone subtle changes to the carnivore bodies to exploit the rich aquatic environment. Otters have long thin body and short legs—ideal for pushing dense undergrowth or hunting in tunnels. An adult male may be up to 4 feet long and 30 pounds. Females are smaller, around 16 pounds typically. The Eurasian otter’s nose is about the smallest among the otter species and has a characteristic shape described as a shallow “W”. An otter’s tail (or rudder, or stern) is stout at the base and tapers towards the tip where it flattens. This forms part of the propulsion unit when swimming fast under water. Otter fur consists of two types of hair: stout guard hairs which form a waterproof outer covering, and under-fur which is dense and fine, equivalent to an otter’s thermal underwear. The fur must be kept in good condition by grooming. Sea water reduces the waterproofing and insulating qualities of otter fur when salt water gets in the fur. This is why freshwater pools are important to otters living on the coast:. After swimming, they wash the salts off in the pools and then squirm on the ground to rub dry against vegetation.

B     Scent is used for hunting on land, for communication and for detecting danger. Otterine sense of smell is likely to be similar in sensitivity to dogs. Otters have small eyes and are probably short-sighted on land. But they do have the ability to modify the shape of the lens in the eye to make it more spherical, and hence overcome the refraction of water. In clear water and good light, otters can hunt fish by sight. The otter’s eyes and nostrils arc placed high on its head so that it can see and breathe even when the rest of the body is submerged. The long whiskers growing around the muzzle are used to detect the presence of fish. They detect regular vibrations caused by the beat of the fish’s tail as it swims away. This allows otters to hunt even in very murky water. Underwater, the otter holds its legs against the body, except for steering, and the hind end of the body is flexed in a series of vertical undulations. River otters have webbing which extends for much of the length of each digit, though not to the very end. Giant otters and sea otters have even more prominent webs, while the Asian short-clawed otter has no webbing—they hunt for shrimps in ditches and paddy fields so they don’t need the swimming speed. Otter ears are protected by valves which close them against water pressure.

C     A number of constraints and preferences limit suitable habitats for otters. Water is a must and the rivers must be large enough to support a healthy population of fish. Being such shy and wary crea-tures, they will prefer territories where man’s activities do not impinge greatly. Of course, there must also be no other otter already in residence—this has only become significant again recently as populations start to recover. A typical range for a male river otter might be 25 km of river, a female’s range less than half this. However, the productivity of the river affects this hugely and one study found male ranges between 12 and 80km. Coastal otters have a much more abundant food supply and ranges for males and females may be just a few kilometers of coastline. Because male ranges are usually larger, a male otter may find his range overlaps with two or three females. Otters will eat anything that they can get hold of—there are records of sparrows and snakes and slugs being gobbled. Apart from fish the most common prey are crayfish, crabs and water birds. Small mammals are occasionally taken, most commonly rabbits but sometimes even moles.

D     Eurasian otters will breed any time where food is readily available. In places where condition is

...

Rái cá

A     Rái cá là loài động vật có vú sống cả dưới nước lẫn trên cạn (hoặc trong trường hợp của rái cá biển chỉ sống dưới nước). Chúng là thành viên của gia đình Mustelid bao gồm lửng, chồn polecat, chồn marten, chồn hương, chồn hôi và chồn nâu, đã sinh sống trên trái đất suốt 30 triệu năm qua và trong nhiều năm chúng đã trải qua những biến đổi tinh tế trở thành động vật ăn thịt để tận dụng môi trường dưới nước phong phú thức ăn. Rái cá có thân hình dài, gầy và chân ngắn – lý tưởng để giúp chúng đẩy được những lớp lông rậm rạp (khi bơi) hoặc săn mồi trong hang nhỏ hẹp. Một con đực trưởng thành có thể dài đến 4 feet và nặng 30 pound. Con cái kích thước nhỏ hơn, thường nặng khoảng 16 pound. Mũi của rái cá Âu-Á có kích thước nhỏ nhất trong số các loài rái cá và có hình dạng đặc trưng được mô tả giống như chữ “W” lùn. Đuôi của rái cá (hoặc bánh lái, hoặc phần mông) mập mạp ở phần đầu và vuốt kiểu búp măng về phía cuối, phần mà đuôi trở nên dẹt hơn. Điều này tạo thành một phần của bộ phận tạo lực đẩy khi bơi nhanh dưới nước. Bộ da và lông rái cá bao gồm hai loại: lông bảo vệ dày cứng tạo thành lớp phủ bên ngoài không thấm nước và lông phía dưới dày và mịn, giống như bộ đồ lót giữ nhiệt của rái cá. Bộ lông cần phải được giữ trong tình trạng tốt bằng cách tự làm vệ sinh. Nước biển làm giảm chất lượng chống thấm và cách nhiệt của lông rái cá khi nước chứa muối ngấm vào lông. Đó là lý do tại sao các hồ nước ngọt lại quan trọng đối với rái cá sống ở bờ biển:. Sau khi bơi, chúng rửa sạch muối trong hồ rồi lăn qua lại trên mặt đất để cọ mình vào cây cỏ làm khô người.

B      Khả năng đánh hơi được sử dụng để săn mồi trên cạn, giữ liên lạc và phát hiện nguy hiểm. Khứu giác rái cá có khả năng tương tự như độ nhạy của chó. Rái cá có đôi mắt nhỏ và có lẽ tầm nhìn bị hạn chế trên cạn. Tuy nhiên chúng có khả năng thay đổi hình dạng của thấu kính trong mắt để làm cho nó có hình cầu hơn, và nhờ đó khắc phục được sự khúc xạ của nước. Ở vùng nước trong và ánh sáng tốt, rái cá có thể săn cá bằng cách sử dụng thị giác. Vòng cung lỗ mũi và mắt của rái cá nằm cao phía trên đầu để nó có thể nhìn và thở ngay cả khi phần còn lại của cơ thể đang chìm. Phần ria dài mọc xung quanh mõm được dùng để phát hiện sự có mặt của cá. Chúng phát hiện những rung động thông thường do nhịp quẫy đuôi của cá khi bơi. Điều này cho phép rái cá săn mồi ngay cả trong vùng nước cực kỳ tối tăm. Khi ở dưới nước, rái cá giữ cho hai chân của chúng tỳ sát vào cơ thể, trừ khi điều hướng để bơi, phần phía sau của cơ thể uốn cong tạo thành một chuỗi các chuyển động nhấp nhô lên xuống. Rái cá sông có lớp màng kéo đến hết phần lớn chiều dài của mỗi ngón chân, mặc dù không đến tận cùng. Rái cá khổng lồ và rái cá biển thậm chí còn có lớp màng nổi bật hơn, trong khi rái cá móng ngắn châu Á không có màng – chúng săn bắt tôm trong các con mương và đồng lúa nên không cần tốc độ bơi cao. Tai rái cá được bảo vệ bởi các van, chúng được đóng lại để bảo vệ trước áp lực nước.

C      Một số ràng buộc và sở thích riêng làm hạn chế môi trường sống thích hợp cho rái cá. Nước là yếu tố bắt buộc và các con sông phải đủ lớn để cung cấp các điều kiện cho một quần thể cá sống khỏe mạnh. Là những động vật nhút nhát và luôn cảnh giác như vậy, chúng sẽ thích những vùng lãnh thổ mà các hoạt động của con người không gây ảnh hưởng quá nhiều. Tất nhiên, đó cũng phải là nơi không có loài rái cá nào khác đang sinh sống – điều này chỉ trở nên quan trọng gần đây khi các quần thể bắt đầu phục hồi. Phạm vi hoạt động điển hình của một con rái cá sông đực có thể là 25 km sông, phạm vi của con cái thấp hơn một nửa. Tuy nhiên, lượng thức ăn của dòng sông ảnh hưởng rất lớn đến điều này và một nghiên cứu cho thấy con đực có phạm vi hoạt động từ 12 đến 80 km. Rái cá ven biển có nguồn cung cấp thức ăn dồi dào hơn nhiều nên phạm vi dành cho con đực và con cái có thể chỉ cách bờ biển vài km. Do phạm vi hoạt động của con đực thường lớn hơn, rái cá đực có thể nhận thấy khu vực của mình chồng lấn với hai hoặc ba con cái. Rái

...

Để xem được đầy đủ nội dung và tải dữ liệu, bạn phải trở thành thành viên của chúng tôi và trả phí cho tài liệu (nếu có)